Lịch sử Natri sulfat

Muối natri sunfat ngậm nước được biết dưới tên muối Glauber sau khi nhà hóa học và bào chế người Đức/Hà Lan Johann Rudolf Glauber (1604–1670) tìm ra nó vào năm 1625 trong nước của một con suối tại Áo. Ông đặt tên nó là sal mirabilis (muối kì lạ), vì những đặc tính y khoa của loại muối này: những tinh thể muối đã được dùng để làm thuốc nhuận tràng cho đến khi có những chất thay thế phức tạp hơn ra đời vào những năm 1900.[1][2]

Vào thế kỉ 18, muối Glauber bắt đầu được dùng làm vật liệu thô cho quá trình sản xuất soda trong công nghiệp, khi phản ứng với kali cacbonat. Nhu cầu gia tăng nên nguồn cung natri sunfat cũng phải tăng lên tương ứng. Do đó, vào thế kỉ 19, quá trình Leblanc quy mô lớn, sản xuất natri sunfat tổng hợp như là một chất trung quan chủ yếu, trở thành phương pháp chính trong sản xuất soda.[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Natri sulfat http://v3.espacenet.com/textdes?DB=EPODOC&IDX=GB69... http://hazard.com/msds/mf/baker/baker/files/s5022.... http://www.sriconsulting.com/CEH/Public/Reports/77... http://galileo.rice.edu/Catalog/NewFiles/glauber.h... http://chemapps.stolaf.edu/jmol/jmol.php?model=%5B... http://pubchem.ncbi.nlm.nih.gov/summary/summary.cg... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/6347057 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/7264905 http://minerals.usgs.gov/minerals/pubs/commodity/s... http://www.eng.mie-u.ac.jp/research/activities/29/...